KỸ THUẬT CHĂN NUÔI NHÍM

Picture
  1. LỜI NÓI ĐẦU

 

Nhím bờm có tên khoa học là Acanthion subcristatum (swinhoc). Tiếng la tinh có nghĩa là: Quill pig (lợn lông) (mặc dù chúng không phải là lợn). Tiếng Anh là Porcupine. Tên tiếng Thái: Tô Mển, tiếng Giao: Điền dạy. Là một loài vật gặm nhấm, sống hoang dã ở một số nước như Nêpan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc. Tại nước ta, chúng sống dọc theo các vùng đồi núi và trung du, rừng rậm.

Thịt nhím hơi giống thịt lợn rừng, nhiều nạc, ít mỡ, là món ăn đặc sản vừa thơm ngon vừa có giá trị dinh dưỡng cao. Bao tử nhím là loại dược liệu quí dùng để ngâm rượu thuốc chữa bệnh đau bao tử, kích thích ăn uống, tiêu hóa tốt. Lông nhím dùng làm đồ trang sức, chữa viêm tai giữa, đau răng. Mật nhím dùng chữa đau mắt, đau lưng và xoa bóp chấn thương. Thịt, ruột già, gan và cả phân nhím dùng chữa bệnh phong nhiệt.

"Bản thảo cương mục" của Lý Thời Trân cho biết, dạ dày nhím vị ngọt, tính hàn, không độc; được sử dụng làm thuốc chữa bệnh dạ dày ở người. Theo Gíao sư Tiến sĩ  Đỗ Tất Lợi, dạ dày nhím còn có thể giải độc, mát máu, chữa lòi dom, di mộng tinh, nôn mửa, kiết lỵ ra máu... Người Trung Quốc rất coi trọng những công dụng này và thường xuyên tìm mua dạ dày nhím.

Theo "Cây cỏ và động vật làm thuốc ở Việt Nam", da nhím được dùng trong y học cổ truyền với tên thuốc là thích vị bì. Lông nhím là hào trư mao thích. Dạ dày nhím là hào trư đỗ.

Với giá trị dinh dưỡng cao, Giá thịt nhím khoảng 2 – 300.000 đồng / kg hơi. Khoảng 10 năm gần đây, nhím là một đối tượng bị săn bắt, đánh bẫy rất nhiều, nhím rừng hoang dã ngày càng trở nên khan hiếm, cạn kiệt.

Bên cạnh việc săn bắt, một số người đã tìm cách nuôi nó. Người đầu tiên có lẽ là ông Tuân (Củ chi) nuôi nhím từ năm 1988, với 2 con giống. Tiếp đó là người dân Sơn la, (nuôi nhím từ năm 1995). Còn bây giờ thì việc nuôi nhím lan ra rất nhiều nơi: Bình Dương, Tây Ninh, Vũng tàu, Hà tây, Hà nội, Bắc giang, Hưng yên.  Hộ nuôi nhiều có đến 100 con, hộ nuôi ít cũng đến 4 con . Tuy nhiên, con giống vẫn còn rất khan hiếm, khó tìm mua, cung không đủ cầu . Giá nhím giống hiện nay từ 5 - 10 triệu / cặp 2 - 8 tháng tuổi. Về kỹ thuật nuôi, khá đa dạng,  mỗi nơi một cách. Một số điều tra sơ bộ cho thấy: nhím dễ nuôi, ít bệnh tật. Đàn nhím nuôi tại nhà sinh sản khá tốt.

Kiến thức và kinh nghiệm là vô tận. Trong quá trình chăn nuôi, chúng tôi mong bà con hãy tự đúc rút, ngoài những điều tìm hiểu được qua tài liệu này, hãy học hỏi lẫn nhau và không quên chia sẽ thông tin với chúng tôi. Có như vậy chúng ta mới có điều kiện nâng dần kiến thức của chúng ta lên và ngày một hiệu quả hơn trong chăn nuôi. 

 

2. CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHÍM BỜM  ĐƯỢC NUÔI HIỆN TẠI

2.1.   Nhận dạng

Nhím Bờm là loại lớn nhất trong bộ gặm nhấm, nặng trung bình từ 13-15kg, thân và đuôi dài từ 80-90cm. Hình dáng nặng nề, mình tròn đầu to, mõm ngắn có 4 răng cửa dẹp và rất sắc, mắt nhỏ, tai nhỏ, chân ngắn (4 chi) 2 chi sau ngắn hơn 2 chi trước, móng chân nhọn sắc. Trên lưng lông biến thành gai cứng, nhọn nhất là nửa lưng phía sau, dài từ 10- 30cm. Đuôi ngắn, có những sợi lông phía đầu phình ra thành hình cốc rỗng ruột màu trắng. 

Nhím đực có mõ dài hơn, đầu nhọn, thân hình thon dài, đuôi dài hơn, tính tình hung dữ, hay lùng sục, đánh lại con đực khác để “bảo vệ lãnh thổ”.

Khi gặp kẻ thù thì nhím rung đuôi, những lông chuông này tạo thành một tiếng kêu “lách cách”, “lè xè” để doạ nạt kẻ thù và thông báo với những con vật cùng đàn. 

Lúc nhỏ, lỗ sinh dục con đực có “gai”, và con cái không có. (Để phân biệt, chúng ta có thể vật ngửa nhím con, vạch lỗ sinh dục để xem). 

Lúc trưởng thành: Con đực có dương vật và dịch hoàn nhô ra phía bụng, cách lỗ hậu môn khoảng 2-3 cm. Con cái có “lỗ sinh dục” cũng cách hậu môn 2-3 cm.  

Nhím cái có 6 vú nằm ở 2 bên sườn. Khi cho con bú nhím mẹ nằm úp bụng xuống đất. 

2.2.   Sinh trưởng của nhím 

Khối lượng cơ thể của nhím khá dao động.

Sơ  Sinh           0,32 ± 0,06 (kg)

3 tháng             3,25 ± 0,48 (kg)

6 tháng             4,72 ± 1,02 (kg)

9 tháng             6,96 ± 0.32 (kg)

12 tháng           8,75 ± 0.42 (kg)

 

Nhìn chung từ sơ sinh đến 1 năm tuổi, nhím sinh trưởng đều , mỗi tháng có thể đạt 1kg,. Sau tuổi này sự phát triển bắt đầu chậm lại.  

Như vậy, nếu nuôi nhím vỗ béo, thì kéo dài quá một năm, tốc độ tăng trọng không còn tốt nữa. Lúc này ta phải tính toán kinh tế, liệu kéo dài thời gian vỗ béo sẽ có lãi hay không. 

Tuy nhiên đối với nhím hậu bị (nuôi sinh sản), chúng ta không nên vỗ béo. Hãy hạn chế lượng thức ăn sao cho tăng trọng 0.8 kg / tháng là vừa đủ.  

Tỉ lệ thịt xẻ so với khối lượng sống chiếm từ 62% đến 69%. Tỉ lệ thịt đùi so với thịt xẻ là 20%. Thịt nhím 1 năm tuổi rất ít mỡ.

 

2.3.   Tập tính 

a. Tính bầy đàn / gia đình “máu mủ”.

 Nhím là loài động vật có tính gia đình rất cao, con đực chỉ chấp nhận ở cùng những nhím con mà chính do chúng đẻ ra. Những con nhím cái mà đã mang thai với đực khác khi ghép đôi với đực mới thì khi đẻ ra con đực sẽ cắn chết ngay những con con này. Nhưng ở lứa đẻ sau thì chúng lại sống với nhau bình thường, nhím con đẻ ra phát triển tốt.

Với nhím nuôi thả theo lô tập thung chúng tôi thấy nhím khó có khả năng thân thiết nhau, chúng hay đánh nhau gặm cụt lông của nhau thậm chí chúng còn giết chết nhau, những lô nhím ghép một đực với vài con cái thì chưa thấy nhím cái sinh sản.  

Kết hợp với những kinh nghiệm thu được qua các đàn khác, chúng tôi nhận thấy rằng không nên nuôi thả từng bầy đàn. Nên ghép chúng thành từng đôi nuôi riêng từng ô, và có thể đổi đực giống. 

Chính vì thế, trong các chuồng nuôi, nếu được quây bằng lưới sắt thưa, chân chuồng phải được xây kín, để nhím con không thể thò chân, người sang chuồng bên để đề phòng con khác cắn. 

b. Ngủ / nghỉ ngơi 

Nhím chủ yếu sinh hoạt về đêm. Ban ngày nhím tập trung ngủ từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Như vậy người chăn nuôi không nên có những hoạt động làm mất giấc ngủ của nhím  trong buổi trưa.  

c. ăn - uống : 

Có một số trại  không cho nhím uống nước, bù lại thức ăn phần lớn là củ, quả và lá nhiều nước. Các trại chăn nuôi khác đều cho uống. Nhím rất hay uống nước và đi tiểu nhiều lần trong ngày. Nước tiểu rất hôi và có hiện tượng là ít ruồi nhặng gần nơi ở của nhím. 

Sau khi sinh 5  ngày nhím con đã tập nhấm nháp thức ăn. Nhím nhặt nhạnh tất cả các loại thức ăn rơi vãi trên nền. Là loài gặm nhấm, nên nhím ăn đủ thứ thức ăn, các loại rau, củ quả, gặm cả xương, thân cây khô.Nhìn chung nhím ăn nhiều về đêm.   

2.4.   Các loại thức ăn dành cho nhím 

     Nhím tiêu thụ thức ăn khá đa dạng:  

Ăn nhiều (>80): Bí đỏ, chuối tây, củ dong riềng, đậu tương, đu đủ, khoai lang, khoai tây, đậu phộng, Mía cây, bắp hạt, khoai mì, sắn dây củ, su hào, cây chuối, cây ngô, quả sung, quả vả, khoai sọ, táo quả, quả roi, quả ổi, xương động vật, sắn lát khô, cám gạo 

Ăn khá (60-80):  Cỏ voi, ghi nê, du zi,  rau muống, dây khoai lang 

Ăn Trung bình (40-60):  Chàm bông vàng, chàm tai tượng, lá dâu 

Ăn kém (<40):  Lá sung 

Các loại thức ăn dạng bột là thứ mà nhím không thích sử dụng trong bữa ăn của mình. Nếu khi ta cho cùng một lúc hai loại thức ăn dạng củ quả và dạng bột vào thì bao giờ Nhím cũng ăn loại thức ăn củ quả trước. 

2.5.   Động dục  

Từ 8 tháng tuổi, nếu sinh trưởng và phát dục tốt, nhím có thể giao phối lần đầu. 

Những động dục bên ngoài không rõ rệt, đặc biệt là nhím mới bắt từ rừng về. Những ngày động dục nhím cái tiết ra một ít chất nhờn lẫn máu. Khi nhím cọ vào nền chuồng hoặc máng ăn, chất nhầy được đẩy ra dính vào nơi nằm, và dính vào âm hộ. Một vài ngày chất nhầy này khô đi và nhím trở lại bình thường.   

Thời gian động dục một lần là 2-3 ngày. 

Ttrong điều kiện nuôi nhốt, thức ăn được cấp đều thường xuyên, thời điểm động dục thường xuất hiện quanh năm.  

Nếu phối giống không chửa, 30-32 ngày sau nhím động dục trở lại. 

Đối với nhím đẻ chết con thời gian động dục sau khi đẻ từ 10-15 ngày.  

Nhím đực và nhím cái tìm đến nhau thông qua mùi của con cái và biểu hiện rung chuông.  Khi đưa nhím đực đến, nếu cái có triệu chứng động dục chúng có thể giao phối luôn. 

2.6.   Giao phối 

Thường nhím giao phối với nhau vào 2 - 5 giờ sáng.. Mỗi khi giao phối con đực tiến sát con cái, thậm chí ép con cái. Khi giao phối con đực nhảy chồm lên con cái hệt như bò - lợn. Lúc đó con cái nằm ệp xuống và chổng đít lên.    

Do biểu hiện động dục không rõ, phối giống thường xẩy ra ban đêm, không có người, khó quan sát, biểu hiện chửa cũng không rõ lắm, nên người chăn nuôi  đã phải nhốt chung cái và đực trong thời gian dài: 

20 ngày (như Trại nhím Tuân Hoà, Củ chi) 

2 – 3 tháng (như trại nhím Cô Năm Triều, Gò Dầu, Tây Ninh) 

Cả đời như một số trại ở Sơn la. 

Việc phối giống thành công rất quan trọng trong việc tăng đàn, vì thế người chăn nuôi hết sức lưu ý để phát hiện động dục, theo dõi lý lịch đầy đủ và cho phối kịp thời. Đối với các nhà chăn nuôi chưa có nhiều kinh nghiệm, nên chọn phương án ghép đôi 1 đực + 1 cái và sinh sống với nhau trọn đời.

 Chế độ dinh dưỡng của con đực cũng phải tốt để nó có thể đủ sức. Một số chủ trại nhím có những kinh nghiệm (bí quyết) riêng trong việc chọn chế độ dinh dưỡng cho con đực. 

2.7.    Sinh sản
Nhím mang thai 90-95 ngày. Bụng nhím thường to ra hai bên. Trong thời gian này nên tách hẳn đực giống để nhím cái được yên và không ăn tranh quá nhiều dễ bị to thai và khó đẻ.
Thường nhím đẻ vào ban đêm, nhưng cũng có nhiều con đẻ ban ngày. Sau khi đẻ chúng để lại nhiều máu trên sàn chuồng. Số con đẻ từ 1 đến 5, trung bình là 2 con. Nếu đẻ 3-4 con, thì 1-2 con nào đó sẽ khó tranh bú với con nhím khác mạnh hơn. Vì thế  nên tách từng cặp và cho bú luân phiên. Được 10 ngày có thể nhốt chung trở lại. Luôn theo dõi nhím mẹ có đủ sữa nuôi con hay không để có chế độ  bồi dưỡng thêm cho nhím mẹ
Có thể tách con lúc được 2 tháng. Tuy nhiên có thể rút ngắn xuống còn 30 - 45 ngày nếu nhím con khoẻ mạnh và nhím cái không có nhiều sữa nữa (có thể xem vú nhím). Trong trường hợp này phải cho nhím con bồi dưỡng tốt.
2.8.   Phối giống trở lại
Có thể đưa nhím đực đã phối lần cuối đến ở chung với “vợ  con” nó sau khi đẻ được 1 tháng.  Thông thường nhím chửa thì sữa cũng ít đi, nên không nên để nhím mẹ phối giống trở lại quá sớm.
3. KỸ THUẬT CHĂN NUÔI
3.1. Chuồng trại
Phải khô ráo, có rãnh thoát nước. có nhiều ánh sáng, che mưa, gió, thoáng mát, nên có bóng cây che. Hướng đông nam để nhận được nhiều anh sáng ban mai và tránh nắng hướng tây. Phải tránh ồn ào, gần đường qua lại, vì nhím vốn là loài nhát và nhạy cảm. Chuồng cách xa nhà ở và đứng cuối hướng gió, vì mùi  phân, nước tiểu của nhím “nặng”, khó chịu cho một số người.
Hệ thống chuồng
Bao gồm nhiều ô để nhốt, Khu nuôi nhốt có thể làm 1 hay nhiều dãy như bàn cờ. Giữa các dãy có lối đi rộng 1 m. Có mương thoát nước (nhưng không nằm trong ô nhốt) và tốt nhất là nằm hai bên chuồng.
Đối với nhím đực giống và cái giống: Diện tích chuồng ít nhất 1.5 m2 cho một gia đình (bố / mẹ và 2-4 con nhím con).
Đối với chuồng nhím hậu bị (từ 2 tháng đến lần phối giống đầu tiên, có thể nuôi thành nhóm, hàng chục con cũng được. Tuy nhiên nên phân theo từng nhóm tuổi để dễ bề chăm sóc, cho ăn hợp với lúa tuổi, trọng lượng..
Độ cao của chuồng từ 1 - 1,5 m. Chớ quá thấp, vì nhím có thể nhảy ra, nhưng chớ quá cao, vì khó chăm sóc, và tốn vật liệu.
Nếu nhím hung dữ, hoặc mới bắt về chưa quen,  ta có thể dùng các tấm ván, phên, piro ximăng để đậy.
Nên có cửa sau để dọn phân, có cửa trước (cỡ 30 x 40 cm) để có thể lùa nhím đi từ ô này tới ô khác.
Nền chuồng láng xi măng, nhưng chớ láng quá trơn, đặc biệt là chuồng nhím sinh sản, để chúng khỏi bị trượt chân khi nhảy phối giống, hoặc trượt ngã lúc chửa đẻ. Cũng có thể làm bằng gạch… Tuy nhiên chớ làm bằng đất, vì nhím rất hay đào bới và có thể đào hầm để trốn và khó làm vệ sinh. Có lỗ thoát nước đủ rộng để có thể rửa chuồng.
Thành chuồng: có thể xây gạch, hoặc khung lưới sắt. Nếu là khung lưới sắt thì chân thành chuồng phải xây kín cao 20 – 30cm, để đề phòng chân con này thò sang chuồng con kia và bị con kia cắn, mẳt lưới chớ quá rộng để nhím con đi thoát.
3.2  Cách nhốt / ghép đôi / ghép đàn
Nhím cái giống : nên nuôi riêng từng ô và có thể nuôi tại một ô suốt cả đời.
Nhím đực giống: cũng nên nhốt từng cá thể ở từng ô riêng biệt. Không nên nhôt chung nhau vì rất hay đánh nhau.
Nhím con mới đẻ ra sẽ ở chung với mẹ cho đến ngày cai sữa.
Nhím nhỏ và hậu bị có thể nhốt chung nhau. Nhớ phân theo lứa tuổi. Lưu ý con to có thể đánh con nhỏ, con cũ có thể đánh con mới đến.
Chớ đưa nhím con vào với nhím đực / cái giống vì dễ bị đánh, cắn.
Giai đoạn phối giống, con đực có thể nhốt chung với nhím cái. Thời gian ngắn – dài tuỳ theo chúng đã có “phối” thành công (chửa) hay không. Thời gian này có thể 20 – 60 ngày. Nhiều nơi vẫn nuôi cả cặp đực / cái như thể hai vợ chồng và ở suốt đời với nhau, kể cả lúc có con.
Con cái sau khi đã chuyển con đẻ của nó đi, mới đưa đực giống về. Nếu vẫn còn nhím con, đực giống có thể đánh những đứa con đó.
3.3.   Cho nhím ăn, uống, nghỉ ngơi
Thời gian chăm sóc / vệ sinh chuồng trại: Nhím chủ yếu sinh hoạt về đêm. Cho nên ban ngay, chúng ta cố gắng dọn phân chuồng ngay buổi sáng, cho ăn ít chút và để cho nhím nghỉ ngơi. Buổi chiều, lúc trời mát chúng ta có thể dọn dẹp lần nữa và cho ăn nhiều hơn buổi sáng.
Cho uống: Nếu thức ăn nhiều nước, như củ quả thì có thể không cần cho uống nước. Tuy nhiên, nếu cho ăn thức ăn khô (sắn khô, ngô hạt..) thì nên cho uống nước. Nước đựng vào bát, đĩa. Nhím rất hay “vọc vạch” vì thế nên dùng chậu sành, sứ.. nặng, hoặc có bệ để nhím khỏi tha đi, húc đẩy…
Thức ăn: có thể bỏ ngay trên nền chuồng sạch sẽ, hoặc trong máng xi măng, sắt thép..
3.4.   Thức ăn và dinh dương
Các loại thức ăn:
Chớ cho ăn đơn điệu, vì như thế không đủ các chất dinh dưỡng. Có thể bổ sung khoáng chất, vitamin cho nhím bằng các loại thức ăn tổng hợp, các cục đá liếm… mà các nhà máy thức ăn công nghiệp sản xuất, và tôt nhất ở dạng viên hoặc tảng (đá liếm). Vì hiện tại chúng ta chưa có thức ăn công nghiệp sẵn cho nhím nên có thể dùng thức ăn cho các loài dạ dày đơn như lợn, thỏ, chó. Thậm chí chúng ta có thể dùng xương trâu, bò, lợn đã nấu chín và phơi khô cho nhím.
Đối với con trưởng thành lượng thức ăn một ngày cần là:
- Thức ăn thô: 0,5kg/con/ngày là các loại lá sung, lá vả, lá dướng, dây khoai lang, thân cây lạc, cây ngô, lá keo dậu, lá mít, chè khổng lồ, các loại cỏ chăn nuôi như cỏ voi, cỏ ghine...
- Thức ăn tinh: 0,3kg/con/ngày (Ngô, sắn, hạt dẻ, hạt gắm bí ngô....)
- Thức ăn giàu vitamin: ổi xanh, chuối xanh, mơ, mận, quả sung, quả me....
- Thức ăn khoáng:
- Muối: 2-3g/con/ngày
- Xương trâu, bò: 100-200g/con/ngày
     Đối với nhím nuôi con cần phải có chế độ đặc biệt hơn, đặc biệt đối với nhím đẻ 3-4 con, và yếu sức khoẻ. Ngoài thức ăn  như đã nói trên cần cho ăn thêm 0,2-0,3 kg lạc nhân, đỗ tương. Đỗ tương cần được rang.
3.5.   Chọn giống: Các chỉ tiêu cần quan tâm
Lãi suất lớn là mong muốn cuối cùng của bất kỳ người chăn nuôi nào. Các yếu tố tạo nên lãi suất là : Đẻ sớm, Đẻ mắn, Đẻ sống nhiều , Lớn nhanh, Thịt ngon, Tiêu thụ thức ăn ít. Các đặc điểm trên bao giờ cũng do bản chất di truyền và trình độ nuôi dưỡng của chúng ta tạo nên.
Nhím có thể phát dục sớm hơn nếu chúng ta tăng mức dinh dưỡng. Nếu nhím tăng trọng được 0.8 kg / tháng, có thể đẻ lúc 10-12 tháng tuổi. Tuy nhiên nếu nuôi chóng lớn quá nhím có thể bị béo gây nên nân xổi, hoặc lúc đẻ có thể có trục trặc như đẻ khó, sát nhau, con yếu.
Đẻ mắn: 1 năm nhím có thể đẻ được 2 lứa. Để có thể đẻ mắn, ta nên chon những cá thể có biếu hiện động dục rõ ràng (chứ không phải động dục “ngầm”), mạnh mẽ. Chúng ta cũng nên chọn những con nhím có biểu hiện chửa rõ ràng. Những cá thể không có biểu hiện chửa rõ ràng sẽ gây cho chúng ta khó điều khiển phối giống và sinh sản.
Đẻ sống nhiều: Thông thường nhím đẻ sinh đôi. Nếu lứa 1 đẻ sinh đôi, ba.. thì các lứa sau có thể đẻ nhiều hơn. Còn nếu lứa đầu đẻ 1, các lứa sau sẽ không chắc chắn đẻ nhiều. Chúng ta cũng có thể chọn nhím đẻ sinh 3, sinh 4 để làm giống. Tuy nhiên đối với nhím đẻ nhiều, cần phải có chế độ nuôi dưỡng con thật tốt.
3.6.   Chống cận huyết
Cận huyết là việc giao phối các cá thể có huyết thống: bố - con, anh - chị - em, ông - bà. Thế hệ con cái cận huyết có thể có khuyết tật. Các đặc điểm như sinh sản: khả năng động dục, khoảng cách hai lứa đẻ cũng có thể bị kém đi. Để hạn chế việc giao phối cận huyết cần phải “đánh số”, ghi chép lý lịch của từng con  và như vậy chúng ta đỡ bị nhầm lẫn trong khi ghép đôi giao phối. Cũng nên trao đổi đực giống giữa các đàn với nhau.
3.7.  Công tác theo dõi
Cũng như bất kỳ giống vật nuôi nào khác việc, có con tốt và có con xấu. Con xấu cần phải loại bỏ và con tốt cần được nhân ra nhiều. Tuy nhiên để làm được việc này, khâu đầu tiên mà chúng ta cần phải làm đó là đánh số và ghi chép lý lịch, năng suất cho từng con nhím một. Mỗi con nhím cần có một số duy nhất. Số hiệu con nhím đã bị chết, thải không thể dùng để đánh cho con sau.
3.8.    Bảo vệ sức khỏe cho Nhím
Cho đến nay chúng ta thường thấy nhím ít mắc bệnh. Chỉ thấy một số bệnh lặt vặt như ỉa chảy, giun, sán, ghẻ.
Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng ta chủ quan. Bất kỳ con vật nào cũng có thể nhiễm bệnh khi  chúng ta chăn nuôi nó theo kiểu công nghiệp: ăn uống đơn điệu, chuồng trại không sạch sẽ, thức ăn hôi thối, dinh dưỡng quá mức…. Các nguyên tắc sau đây cần được thực hiện liên tục, nghiêm túc:
Đảm bảo chuồng trại hợp vệ sinh
Đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng
Khi phát bệnh có thể báo cho bác sỹ nếu bệnh lạ và nặng.
Tổng hợp biên soạn theo tài liệu nghiên cứu của TS. Võ Văn Sự